SEARCH RESULTS
Tìm thấy 288 kết quả với một nội dung tìm kiếm trống
- 5 quy tắc chọn ngành, chọn nghề phù hợp
Chọn ngành trước khi chọn trường Trong quá trình chọn nguyện vọng thi đại học - cao đẳng, một số học sinh thường có xu hướng chọn trường trước, sau đó mới chọn ngành. Điều này dễ dàng dẫn đến hiện trạng nhiều bạn cảm thấy ngành mình học không phù hợp và đứng giữa quyết định khó nhằn ở giai đoạn năm hai, năm ba: bỏ ngang ngành mình đang học để bắt đầu lại hay gắng gượng vì nuối tiếc công sức phấn đấu suốt một thời gian dài. Vì vậy, việc chọn ngành nên được ưu tiên thực hiện trước khi chọn trường để hạn chế những rủi ro trong tương lai. Khi chọn ngành, bên cạnh sở thích, đam mê, học sinh nên cân nhắc các yếu tố về khả năng, sở thích cùng triển vọng của ngành nghề đó trong vòng 5 năm tới. Bạn có thể tham khảo mô hình lý thuyết nghề nghiệp dưới đây để chọn ngành, nghề phù hợp. Đừng vội chọn ngành khi chưa hiểu rõ bản chất Nhiều người nghĩ rằng, chỉ cần điểm đầu vào thật cao và học ngành đúng khối thi “thế mạnh” của mình là đã nắm chắc thành công 4 năm đại học. Tuy nhiên, đó chỉ mới là bước đầu, đưa bạn chạm đến cánh cửa của trường đại học, cao đẳng, bởi sau cánh cửa đó là một hành trình đầy khắc nghiệt đang đón chờ nếu bạn không nắm rõ bản chất của ngành mình có ý định theo đuổi.. Ví dụ, đặc thù ngành Y là thường xuyên phải tiếp xúc với máu. Nếu một sinh viên Y sợ máu thì dù đã từng học giỏi đến đâu, người đó cũng khó lòng trở thành một bác sĩ trong tương lai. Vì vậy, khi chọn ngành nghề, việc xem nhẹ những điểm mạnh cũng như điểm yếu của bản thân khi chọn ngành có thể dẫn đến những hệ lụy nghiêm trọng. Không nên chọn ngành học theo hiệu ứng đám đông Những ngành như Quản trị Kinh doanh nghe có vẻ thật hào nhoáng, bạn sẽ biết tất cả mọi thứ sau 4 năm đại học nhưng điều này thật sự nguy hiểm. Việc cái gì cũng biết đến cuối cùng lại thành không biết gì. Vì vậy, bạn hãy một lần nữa sử dụng cây nghề nghiệp để có thể tự định hướng nghề nghiệp cho bản thân một cách tốt nhất và chọn một chuyên ngành thật cụ thể để theo đuổi. Chọn trường đào tạo đúng ngành Khi đã chọn được ngành phù hợp, hãy thật cẩn thận trong việc chọn ngôi trường để “chọn mặt gửi vàng”. Một trong những lời khuyên của các chuyên gia mỗi mùa tư vấn tuyển sinh là nên chọn trường có thế mạnh trong lĩnh vực mà mình đã chọn. Một trong những khối ngành hot được nhiều trường "đổ xô" mở thêm ngành đào tào là khối ngành Kinh tế. Tuy nhiên trước khi nộp hồ sơ, các bạn sĩ tử 12 nên đặt ra câu hỏi : “Liệu tấm bằng Kinh tế ở những trường đại học không thuộc nhóm ngành kinh tế thì nhà tuyển dụng sẽ đánh giá như thế nào?”, từ đó đưa ra quyết định đúng đắn nhất cho bản thân. Môi trường học tập cởi mở Việc chọn trường đại học - cao đẳng không nên chỉ dừng ở chất lượng đào tạo hay điểm chuẩn. Để một sinh viên học tập hiệu quả trong suốt 4 năm đại học, môi trường học tập thoải mái cũng là một tiêu chí quan trọng. Nguồn: Sưu tầm.
- Áp dụng ẩn dụ để dạy thứ tự tính giá trị biểu thức - Gia đình biểu thức
Ngày xưa, gia đình BIỂU THỨC sống với nhau rất thuận hòa. Ông NGOẶC sinh được hai người con là cô NHÂN và cô CHIA, hai cô NHÂN, CHIA lập gia đình và sinh ra hai người con của là anh CỘNG VÀ anh TRỪ. Vì sống rất tình cảm nên cả gia đình được mọi người quý. Vào mùa hè, họ hàng thường xuyên đến thăm gia đình BIỂU THỨC. # Hình thành kiến thức mới/ 3 mức độ ưu tiên: Khi khách đầu tiên đến thăm mà chỉ có hai anh CỘNG, TRỪ ở nhà. Theo truyền thống của gia đình thì khi khách đến nhà cần chào từng người, chứ k chào “ con chào cả nhà ạ”. Vậy theo em nên chào ai trước? - Chào người lớn tuổi hơn trước. - Vậy như thế nào là lớn tuổi hơn? - Sinh ra trước, viết tên trước trong giấy khai sinh. - Vậy khi chỉ có CỘNG, TRỪ ta cần xem ai sinh ra trước, viết tên trước thì chào. Vị khác thứ hai đến nếu gặp cả cô NHÂN và cô CHIA và anh CỘNG anh TRỪ thì nên chào ai trước? - Chào NHÂN hoặc CHIA trước vì lớn tuổi, sau đó chào đến CỘNG hoặc anh TRỪ (ai sinh ra trước thì chào trước). Vị khách thứ ba đến gặp cả ông NGOẶC, cô NHÂN và cô CHIA và anh CỘNG anh TRỪ thì chào ai trước cho lễ phép? - Chào ông NGOẶC, sau đó mới đến NHÂN hoặc CHIA trước vì lớn tuổi, cuối cùng chào đến CỘNG hoặc anh TRỪ (ai sinh ra trước thì chào trước). # Phát hiện/ Đúc rút kiến thức: ông NGOẶC, cô NHÂN và cô CHIA và anh CỘNG anh TRỪ là NHỮNG PHÉP TÍNH sẽ xuất hiện trong các biểu thức có chứa nhiều phép tính. Vậy thế thì thứ tự tính như thế nào? MỨC ĐỘ ƯU TIÊN TÍNH chính là THỨ TỰ CHÀO. - GV YC HS nêu lại các mức độ ưu tiên trong 3 trường hợp điển hình trên theo kiến thức về biểu thức toán học. # Mở rộng tư duy/ kiến thức: Nếu em đến thăm nhà họ mà em gặp bất cứ ai đang ở trong nhà, liệu em có biết chào không? Lấy ví dụ? Hoặc chơi mini game: 1 bạn nói tên một số người trong gia đình biểu thức, 1 bạn chào” # Lồng tâm/ giá trị đạo đức: - Con học được bài học đạo đức gì từ câu chuyện trên? - Câu chuyện về gia đình nhà ông Ngoặc đã cho ta thấy bài học quý giá về lễ phép và lòng tôn trọng đối với người lớn tuổi. Xác định thứ tự chào hỏi hợp lý. Sử dụng ngôn ngữ lịch sự và cử chỉ tôn trọng khi gặp mọi người.
- Làm sao để có thái độ tích cực?
Trong một bài viết gần đây, chúng ta đã nói về việc tại sao thái độ quan trọng hơn trình độ. Từ đó, nhiều người đặt câu hỏi, vậy bây giờ làm sao để tôi có thái độ tích cực? Có thể nói rằng bản chất của thái độ là niềm tin, phía sau một thái độ tích cực là một niềm tin lành mạnh. Giả sử tôi tin rằng trong mỗi người có đủ cả hạt giống tốt cũng như hạt giống xấu và mỗi hành động của tôi khi tương tác với người đó đang góp phần tưới tẩm cho những hạt giống ấy thì: 1. Tôi hiểu rằng: "Ồ, những lúc như vầy là hạt giống này trong họ đang biểu hiện, những lúc như vầy là hạt giống kia trong họ đang biểu hiện", vì thế tôi không chỉ chú tâm vào những hành vi mà tôi không thích ở người đó nữa mà sẽ có cái nhìn rộng mở hơn, bao dung hơn, kiên nhẫn hơn. 2. Tôi cẩn trọng với lời nói và hành động của mình hơn. Tôi để ý rằng những lời nói và hành động kiểu A sẽ kích hoạt những cảm xúc A, những lời nói và hành động kiểu A sẽ kích hoạt những cảm xúc B, từ đó, thay vì cố gắng thay đổi người kia, tôi tập trung vào thay đổi chính mình để có những lời nói và hành vi tích cực hơn. Như vậy, để có thái độ tích cực, trước hết chúng ta cần kiểm tra lại hệ thống những niềm tin của mình và tìm cách chuyển hóa những niềm tin tiêu cực, nếu có. Việc này chưa bao giờ dễ dàng bởi niềm tin là những "kẻ giấu mặt" phía sau tất cả những gì chúng ta nói và làm. Ảnh: Steve Halama trên Unsplash NGUỒN BÀI VIẾT: #LifeArtVietnam #Cam_xuc_va_tuong_tac_xa_hoi
- 20 lời khuyên dành cho giáo viên
1. Hãy vui cùng những thành tích nhỏ bé của học trò và hãy chia sẻ những thất bại của chúng. 2. Bạn là người rất gần gũi với học trò, hãy cố gắng để chúng luôn cởi mở với bạn. Hãy vừa là bạn vừa là thầy của chúng. 3. Đừng ngại thừa nhận với học trò là mình không biết về một vấn đề nào đó. Hãy cùng chúng tìm câu trả lời. 4. Hãy cố gắng khơi dậy sự tự tin trong mỗi em học sinh. Khi đó chúng sẽ đạt tới nhiều đỉnh cao trong học tập. 5. Đừng đòi hỏi một "kỷ luật lý tưởng" trong giờ học. Bạn đừng độc đoán quá, hãy nhớ rằng giờ học là một phần cuộc sống của đứa trẻ, vì vậy đừng làm cho giờ học gò bó quá, cứng nhắc quá. Qua mỗi giờ học đứa trẻ cần trở thành một nhân cách cởi mở, say mê, sáng tạo và phát triển toàn diện. 6. Hãy cố gắng để giờ giảng của bạn không khuôn mẫu quá, chuẩn mực quá. Tuyệt vời nhất là trong mỗi giờ học đều có những "phát minh" nho nhỏ được diễn ra, những chân lí nho nhỏ được phát hiện, những đỉnh cao tri thức được chinh phục và những cuộc tìm kiếm bắt đầu. 7. Các cuộc gặp gỡ với phụ huynh học sinh cần thiết thực và hiệu quả. Mỗi buổi họp phụ huynh là dịp để bạn cung cấp thêm cho họ những kiến thức về tâm lí, sư phạm, về quá trình học tập. 8. Hãy bước vào lớp với nụ cười. Khi học trò chào, hãy nhìn vào mắt từng em để hiểu được tâm trạng cúa chúng, vui thì chia vui, buồn thì động viên. 9. Hãy luôn ghi nhớ: Học trò không phải là một chiếc bình cần đổ đầy kiến thức, các em là những ngọn đuốc cần được thắp lên. 10. Điểm kém ảnh hưởng không tốt đến việc hình thành nhân cách của học trò. Bạn hãy cố gắng chừng nào có thể để tránh cho các em điểm kém. Hãy tìm cách khác để khắc phục tình trạng này. 11. Mỗi bài giảng của bạn phải là một bước tiến, dù là rất nhỏ, về phía trước trong việc khám phá tri thức. Học sinh cần phải vượt qua những khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức và bạn hãy tính toán sao cho mức độ của những khó khăn đó thật phù hợp. 12. Đừng tìm những con đường dễ dàng nhất trong việc giảng dạy. Như thế học trò sẽ lười suy nghĩ, bạn cần làm cho chúng thấy việc học là lao động thực sự. Điều quan trọng nhất là bạn phải luôn khích lệ, luôn ở bên chúng khi khó khăn. 13. Nếu phải cân nhắc giữa hai điểm số khi cho điểm học sinh thì bạn hãy chọn điểm cao hơn. Hãy chắp cho đứa trẻ đôi cánh, hãy tin ở em, cho em hy vọng. 14. Không cần che giấu tình cảm của mình với các em, nhưng cần tuyệt đối tránh sự ưu ái đặc biệt với một vài em nào đó. Hãy cố nhìn thấy những ưu điểm ẩn sâu trong mỗi em. Có thể chính các em cũng không biết mình có những ưu điểm đó. Bạn hãy giúp chúng nhận ra, phát triển chúng thêm. 15. Hãy nhớ rằng trên lớp học sinh cần phải cảm thấy hấp dẫn và thú vị. Chỉ có sự hấp dẫn mới làm các em tập trung chú ý được. 16. Khi tiếp xúc với phụ huynh học sinh, bạn cần nhớ rằng đối với họ đứa con là quí giá nhất trên đời. Vì thế, bạn hãy hết sức tế nhị, tránh đừng để phụ huynh bị tổn thương. 17. Đừng sợ xin lỗi học trò nếu thấy mình sai. Xin lỗi chỉ làm tăng uy tín của bạn trong mắt các em mà thôi. Khi các em mắc lỗi, bạn cũng đừng nóng nảy quá. 18. Hãy cố gắng sống hết mình với các em. Vui cùng vui, buồn cùng buồn. Đùa nghịch và dạy dỗ. Hãy kiềm chế khi các em nói dối. Công bằng, kiên trì và trung thực là khẩu hiệu của bạn. 19. Đừng dạy học sinh quá tự tin - sau này chúng sẽ bị xa lánh; quá rụt rè - chúng sẽ bị coi thường; quá lắm lời - chúng sẽ không được ai tính đến; quá cứng nhắc - chúng sẽ bị khước từ. 20. Một lần nữa xin nhắc lại: Hãy kiềm chế, bình tĩnh, kiên trì và mềm mỏng. Nguồn: GV Ngô Anh Thư sưu tầm
- Làm thế nào để dạy học sinh có khả năng học tập khác nhau
Dạy học sinh trong cùng lớp học nhưng có các cấp độ học tập khác nhau sẽ thực sự khó. Tuy nhiên, việc học cách phân biệt khả năng học tập của học sinh có thể giúp giáo viên trình bày bài giảng theo cách sẽ thu hút được tất cả học sinh trong lớp cùng một lúc. Làm thế nào để dạy học sinh có khả năng học tập khác nhau Dạy học sinh trong cùng lớp học nhưng có các cấp độ học tập khác nhau sẽ thực sự khó. Tuy nhiên, việc học cách phân biệt khả năng học tập của học sinh có thể giúp giáo viên trình bày bài giảng theo cách sẽ thu hút được tất cả học sinh trong lớp cùng một lúc. Dạy học sinh với nhiều khả năng học tập khác nhau liên quan đến sự sáng tạo, thời gian và mong muốn làm thế nào học sinh học được tốt nhất. Với các công cụ phù hợp, giáo viên vẫn có thể tiếp cận từng học sinh của mình cho dù phong cách học có thể khác nhau như thế nào. Dưới đây là một số ví dụ về cách giáo viên có thể dạy một lớp có các khả năng học tập khác nhau. 1. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN A. ĐÁNH GIÁ HỌC SINH Một trong những điểm tốt nhất để bắt đầu là cách đánh giá học sinh. Một lớp học có thể toàn học sinh cùng tuổi, nhưng khả năng học tập của chúng rất có thể sẽ có khoảng cách rất xa nhau. Ví dụ, một số học sinh có thể là người học trực quan, trong khi những người khác là người học âm thanh. Một số học sinh có thể đọc tốt, trong khi những người khác có thể không đọc được. Tiến hành đánh giá có thể giúp giáo viên xác định các kỹ năng học tập cá nhân, cách học và sở thích của học sinh trong các lớp học có khả năng hỗn hợp. B. DẠY HỌC KHÁC BIỆT Một khi giáo viên có cảm giác về loại học sinh trong lớp học, họ có thể lập kế hoạch cho các chương trình giảng dạy và các khóa học phù hợp. Quá trình này thường được gọi là hướng dẫn khác biệt , liên quan đến việc giáo viên lập kế hoạch có chủ đích cho các khả năng học tập khác nhau của học sinh. Như tác giả và nhà giáo dục Carol Ann Tomlinson (Ed.D.) giải thích, giáo viên sử dụng hướng dẫn khác biệt thay đổi phương pháp giảng dạy của họ 'để tạo ra trải nghiệm học tập tốt nhất có thể.' Theo Tiến sĩ Tomlinson, hướng dẫn khác biệt là 'một cách tiếp cận giảng dạy chủ trương lập kế hoạch tích cực và chú ý đến sự khác biệt của học sinh trong lớp học, trong bối cảnh các chương trình giảng dạy chất lượng cao.' Mặc dù thuật ngữ này có thể mới đối với một số người, nhưng thực ra đây là một khái niệm đã sử dụng khá lâu. Ví dụ, hầu hết các giáo viên tự động giải mã học sinh nào học theo cách nào trong vài tuần đầu tiên đến lớp. Phương pháp khác biệt chỉ thu hẹp kỹ năng đó xuống bốn yếu tố cơ bản trong lớp học mà Tiến sĩ Tomlinson định nghĩa là nội dung, quy trình, sản phẩm và môi trường học tập. 2. ĐẶT PHƯƠNG THỨC THÀNH HÀNH ĐỘNG Với một kế hoạch tiếp cận và một phương pháp để tuân theo, giáo viên có thể đưa kiến thức mới của họ về học sinh vào thực tế. Điều này có thể được thực hiện thông qua bốn yếu tố của Tiến sĩ Tomlinson. A. NỘI DUNG Nội dung là tài liệu thực tế mà học sinh cần học trong chương trình giảng dạy. Khi nhìn vào tài liệu mới, giáo viên nên tự hỏi làm thế nào họ có thể trình bày nội dung theo cách mà tất cả học sinh có thể tiếp thu được. Kế hoạch các cách khác nhau để cung cấp nội dung có thể làm điều này xảy ra. Ví dụ, giáo viên có thể trình bày toàn bộ tài liệu cho cả lớp bằng nhiều phương pháp, bao gồm các chương trình máy tính, dự án thủ công, video clip và thậm chí trình diễn trực quan, như cắt bánh để thể hiện phân số. Chỉ cần đảm bảo rằng các phương pháp được sử dụng với từng cấp độ học tập của học sinh trong lớp học. B. QUÁ TRÌNH Quá trình liên quan đến cách học sinh tham gia và học nội dung. Đây là chìa khóa vì nó cho phép học sinh dành thời gian để thu nhận kiến thức mới. Quá trình cũng cho học sinh cơ hội để tìm ra những gì họ có thể hoặc không thể hiểu. Quá trình cũng có thể được sử dụng như một cách để giáo viên theo dõi và đánh giá sự tiến bộ của học sinh. Chẳng hạn, nhà tư vấn giáo dục John McCarthy khuyên các giáo viên nên thiết kế 'một hoặc hai kinh nghiệm xử lý cho mỗi 30 phút hướng dẫn' . Những kinh nghiệm này cho học sinh nghỉ ngơi và giáo viên có thời gian để tìm ra ai cần hướng dẫn thêm và ai không cần. Các cách để thực hiện trải nghiệm quá trình có thể bao gồm thời gian làm hoạt động nhóm, trong đó học sinh có thể nói chuyện với nhau về các tài liệu đã học. Viết nhật ký cũng có thể được sử dụng như một cách để học sinh xử lý và tiêu hóa tài liệu. Viết lại những gì họ đã học có thể giúp họ lưu giữ thông tin cũng như khám phá các phần của tài liệu mà họ có thể không hiểu. C. CÁC SẢN PHẨM Sản phẩm là các dự án hoặc bài tập khuyến khích học sinh áp dụng nội dung trong các tình huống trong và ngoài lớp học. Ví dụ, một khi nội dung được trình bày và thời gian xử lý đã được đưa ra, hãy yêu cầu học sinh phát triển một dự án của riêng mình để minh họa tốt nhất những gì đã học. Ví dụ, học sinh có thể tạo một bảng áp phích với hình ảnh và nhãn, hay phát triển một tiểu phẩm ngắn hoặc vẽ. Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một số gợi ý tùy chọn để lựa chọn và thậm chí cho phép họ làm việc theo nhóm. D. MÔI TRƯỜNG HỌC TẬP Môi trường học tập chỉ đơn giản là đề cập đến môi trường lớp học và cách nó hoạt động hoặc cảm nhận với học sinh. Điều quan trọng là giáo viên tạo ra một lớp học sẽ phục vụ tất cả học sinh, bất kể khả năng học tập của họ. Ví dụ, nếu bài tập trong lớp được đưa ra, hãy phát triển một danh sách chung các yêu cầu và sau đó cung cấp cho học sinh các hướng dẫn bổ sung trên cơ sở cá nhân để nó giải quyết các khả năng học tập của họ. Hãy chắc chắn rằng có những nơi yên tĩnh trong lớp học, nơi học sinh có thể tập trung. Hoặc cung cấp cho họ tùy chọn để làm việc với các đối tác. Hãy chắc chắn rằng lớp học là các tùy chọn được cung cấp bởi vì mỗi học sinh làm việc tốt nhất trong một môi trường khác nhau. Như Tiến sĩ Tomlinson chỉ ra, 'một số người học cần di chuyển để học, trong khi những người khác ngồi yên lặng sẽ tốt hơn'. 3. KẾT QUẢ HỌC TẬP Phân biệt các khả năng học tập khác nhau trong một lớp học có thể mất thời gian và thường cần chuẩn bị thêm. Tuy nhiên, một khi giáo viên có ý tưởng cơ bản về các cấp độ học tập trong lớp học, họ có thể tạo chương trình giảng dạy và các thiết lập được thiết kế riêng cho học sinh của họ. Cá nhân, học sinh sẽ phát triển vì khả năng của giáo viên để đáp ứng từng người trên cấp độ học tập của mình. Nhìn chung, lớp học sẽ duy trì cảm giác đoàn kết, vì không có học sinh cụ thể nào được chọn ra hoặc tụt lại để bắt kịp chính mình. *Khi cố gắng kết hợp hướng dẫn khác biệt trong lớp học, giáo viên cần hỏi bản thân một bộ câu hỏi để giúp hướng dẫn thích ứng của họ về đánh giá chẩn đoán, nội dung, thực hành giảng dạy và các sản phẩm của học sinh. Điều đó có thể giúp giáo viên đánh giá sự phù hợp hướng dẫn của họ cho những người học đa dạng lớp học. Các câu hỏi sau đây chỉ là một mẫu trong số đó. Đánh giá chẩn đoán • Làm thế nào tôi có thể đánh giá phạm vi kỹ năng, sở thích và nhu cầu học tập của học sinh trong lớp này? • Tôi đã được thông báo về bất kỳ học sinh nào có nhu cầu đặc biệt chưa? • Có bao nhiêu cấp độ khác nhau tồn tại trong lớp này và bằng biện pháp nào? • Đánh giá này có đánh giá chính xác sự chuẩn bị của học sinh, bộ kỹ năng và kiến thức nội dung không? Nội dung • Bản chất và phạm vi của nội dung có phù hợp với tất cả học sinh trong lớp này không? • Làm thế nào nội dung có thể được điều chỉnh để thu hút tất cả học sinh? • Những nguồn lực và chiến lược nào có sẵn? Hướng dẫn thực hành • Những điểm đầu vào nào tôi có thể cung cấp để thu hút học sinh từ đầu? • Các kế hoạch giảng dạy của tôi có giúp nâng cao sự hiểu biết của mỗi học sinh lên một cấp độ mới không? • Tôi có còn giữ tất cả học sinh với kỳ vọng cao không? Sản phẩm của học sinh • Tôi có cho phép một loạt các sản phẩm của học sinh thể hiện sự thành thạo không? • Những loại sản phẩm nào sẽ thể hiện tốt nhất việc làm chủ môn học cho mỗi học sinh, trong khi vẫn giữ cho tất cả học sinh kỳ vọng cao về kiến thức nội dung mới? • Tôi có tạo điều kiện và đánh giá sự phát triển kỹ năng ngoài việc kiểm tra mức độ hiểu nội dung không? Sưu tầm
- Giáo dục Tiểu học - định hình nhân cách và đạo đức cho trẻ
Giáo dục tiểu học không chỉ đơn thuần là việc truyền đạt kiến thức cơ bản, mà còn là nơi ươm mầm những giá trị nhân cách và đạo đức đầu tiên cho trẻ em. Điều gì khiến giai đoạn này trở nên quan trọng đến vậy trong việc định hình con người tương lai? Những giá trị nào sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của một đứa trẻ từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường? Trẻ em ở lứa tuổi này giống như những miếng đất mềm, sẵn sàng tiếp nhận mọi điều được gieo trồng. Chính vì thế, việc hiểu rõ tầm quan trọng của giáo dục nhân cách và đạo đức trong giai đoạn này sẽ giúp chúng ta tạo ra một nền móng vững chắc cho những công dân tương lai, biết sống có trách nhiệm, lòng nhân ái và đạo đức tốt đẹp. 1. Tầm quan trọng của giáo dục nhân cách và đạo đức từ sớm Giáo dục nhân cách và đạo đức từ bậc tiểu học đóng vai trò nền tảng trong việc định hình các giá trị cốt lõi cho trẻ em. Ở lứa tuổi này, trẻ bắt đầu nhận thức về đúng sai, về trách nhiệm và lòng nhân ái. Những giá trị này không chỉ là nền tảng cho một cuộc sống tốt đẹp mà còn giúp trẻ phát triển các kỹ năng xã hội và khả năng đối mặt với những thách thức trong tương lai. Ví dụ, một học sinh tiểu học học được giá trị của sự trung thực từ những bài học đơn giản sẽ trở thành một người lớn có trách nhiệm và đáng tin cậy trong cộng đồng. 2. Phương pháp giáo dục nhân cách và đạo đức hiệu quả Giáo dục nhân cách và đạo đức là một quá trình liên tục, đòi hỏi sự sáng tạo và linh hoạt trong cách tiếp cận. Để đảm bảo rằng những giá trị đạo đức được trẻ em tiếp nhận một cách sâu sắc và bền vững, các phương pháp giáo dục cần được thiết kế không chỉ để truyền đạt kiến thức mà còn để trải nghiệm và thấm nhuần trong tâm hồn trẻ. Dưới đây là những phương pháp giáo dục hiệu quả có thể áp dụng trong bậc tiểu học: Học qua thực hành, trải nghiệm để thấm nhuần giá trị Trẻ em thường học hỏi tốt nhất thông qua trải nghiệm thực tế. Khi trẻ tham gia vào các hoạt động thực hành, như trồng cây, chăm sóc động vật, hay tham gia vào các dự án từ thiện, các em không chỉ học về kiến thức liên quan mà còn cảm nhận sâu sắc về trách nhiệm và sự quan tâm đến môi trường và cộng đồng xung quanh. Ví dụ, một dự án “Xanh Hóa Trường Học” không chỉ giúp trẻ em hiểu về tầm quan trọng của môi trường mà còn thúc đẩy tinh thần trách nhiệm bảo vệ thiên nhiên. Giáo viên làm gương: Hành động thực tiễn để truyền cảm hứng Giáo viên là hình mẫu quan trọng nhất trong quá trình giáo dục nhân cách và đạo đức. Không gì có sức thuyết phục hơn những hành động thực tiễn từ chính người giảng dạy. Một giáo viên kiên nhẫn, biết lắng nghe, và tôn trọng học sinh sẽ gieo mầm những giá trị tốt đẹp trong lòng trẻ. Chẳng hạn, khi giáo viên giải quyết xung đột giữa các học sinh bằng cách lắng nghe và tìm giải pháp công bằng, trẻ em sẽ học được giá trị của sự công bằng và lòng nhân ái thông qua ví dụ cụ thể. Học qua câu chuyện: Sức mạnh của lời nói và tưởng tượng Câu chuyện luôn là một phương tiện mạnh mẽ để truyền tải những bài học đạo đức. Những câu chuyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, hoặc các tình huống đạo đức hàng ngày được kể lại trong lớp học sẽ khơi dậy trí tưởng tượng và cảm xúc của trẻ, giúp chúng dễ dàng liên hệ và ghi nhớ các giá trị đạo đức. Khuyến khích tư duy phản biện: Tạo không gian cho sự thấu hiểu sâu sắc Một trong những phương pháp hiệu quả để phát triển nhân cách và đạo đức là khuyến khích trẻ em tư duy phản biện và tự khám phá. Khi đối mặt với các tình huống đạo đức, trẻ được khuyến khích đặt câu hỏi, thảo luận, và tự đưa ra quyết định, chúng sẽ hiểu sâu sắc hơn về nguyên tắc đạo đức và học cách chịu trách nhiệm cho hành động của mình. Ví dụ, khi thảo luận về một tình huống giả định, như việc giữ lại một món đồ không phải của mình, trẻ em có thể được hướng dẫn để suy nghĩ về hậu quả và quyết định đúng đắn. Tích hợp giáo dục nhân cách trong mọi môn học: Đưa đạo đức vào cuộc sống hàng ngày Giáo dục nhân cách và đạo đức không nên bị giới hạn trong những bài học riêng lẻ mà cần được tích hợp vào mọi khía cạnh của chương trình giảng dạy. Mỗi môn học đều có thể trở thành một phương tiện để truyền tải các giá trị đạo đức. Chẳng hạn, trong môn Toán, giáo viên có thể khuyến khích sự trung thực qua các bài kiểm tra, hoặc trong môn Tiếng Việt, học sinh có thể học về lòng dũng cảm qua các nhân vật trong truyện. Việc tích hợp này giúp trẻ thấy rằng đạo đức không chỉ là một phần của giáo dục mà là một phần của cuộc sống hàng ngày. 3. Vai trò của gia đình và cộng đồng trong giáo dục nhân cách Gia đình và cộng đồng cũng đóng vai trò không thể thiếu trong việc giáo dục nhân cách và đạo đức cho trẻ em. Một gia đình biết cách giáo dục con cái bằng tình yêu thương, sự kiên nhẫn và tôn trọng sẽ giúp trẻ em hình thành những giá trị nhân văn bền vững. Đồng thời, cộng đồng xung quanh cũng cần xây dựng một môi trường an toàn, lành mạnh và khuyến khích trẻ em tham gia vào các hoạt động có ý nghĩa. Sự nhất quán giữa nhà trường và gia đình: Khi nhà trường và gia đình có sự phối hợp chặt chẽ trong việc giáo dục, trẻ em sẽ cảm thấy được ủng hộ và có định hướng rõ ràng. Ví dụ, một đứa trẻ được dạy về sự tôn trọng và trách nhiệm cả ở nhà và trường sẽ dễ dàng áp dụng những giá trị này vào cuộc sống hàng ngày. Cộng đồng là nền tảng vững chắc: Các chương trình xã hội, câu lạc bộ trẻ em, và các hoạt động tình nguyện trong cộng đồng giúp trẻ có cơ hội học hỏi và thực hành các giá trị đạo đức trong môi trường thực tế. Những hoạt động này không chỉ giúp trẻ hiểu rõ hơn về vai trò của mình trong cộng đồng mà còn khuyến khích sự phát triển nhân cách tích cực. Ví dụ: Nhiều trường tiểu học đã tổ chức các dự án cộng đồng như “Ngày Sạch Sẽ” hoặc “Chăm Sóc Người Cao Tuổi”, nơi học sinh được khuyến khích tham gia và đóng góp cho cộng đồng. Qua những hoạt động này, trẻ em không chỉ học hỏi về trách nhiệm xã hội mà còn nhận thức rõ ràng hơn về ý nghĩa của việc làm điều tốt đẹp. Kết bài Giáo dục nhân cách và đạo đức trong trường tiểu học không chỉ là việc truyền đạt kiến thức mà còn là nền tảng quan trọng giúp trẻ em phát triển toàn diện về tâm hồn và phẩm chất. Qua những phương pháp giáo dục hiệu quả như học qua thực hành, kể chuyện, và khuyến khích tư duy phản biện, chúng ta có thể giúp trẻ hiểu sâu sắc về các giá trị đạo đức và sống đúng với những giá trị đó. Vai trò của giáo viên, gia đình và cộng đồng trong quá trình này là vô cùng quan trọng, tạo nên một môi trường giáo dục tích cực và toàn diện. Việc đầu tư vào giáo dục nhân cách và đạo đức không chỉ mang lại lợi ích cho trẻ em mà còn góp phần xây dựng một xã hội văn minh, giàu lòng nhân ái và trách nhiệm. Hãy cùng chung tay để đảm bảo rằng thế hệ tương lai sẽ được trang bị đầy đủ những giá trị tốt đẹp nhất. Nếu bạn quan tâm đến việc giáo dục nhân cách và đạo đức cho trẻ em, hãy tìm hiểu thêm về các phương pháp giáo dục hiệu quả hoặc tham gia vào các hoạt động cộng đồng để hỗ trợ quá trình này. Đừng quên chia sẻ bài viết này với bạn bè và đồng nghiệp để cùng nhau lan tỏa những giá trị giáo dục tốt đẹp! HOÀI MƠ
- Đánh Giá Học Sinh Không Cần Bài Kiểm Tra: Bí Quyết Thành Công Của Hệ Thống Giáo Dục Phần Lan
Giáo viên ở Phần Lan là những chuyên gia có uy tín cao, được phép chịu trách nhiệm về quá trình học tập của học sinh. Họ có thể sử dụng bất kỳ phương pháp nào họ muốn miễn là họ biết những gì học sinh của họ đã học. ĐÁNH GIÁ HỌC SINH THẾ NÀO NẾU KHÔNG CÓ BÀI KIỂM TRA TIÊU CHUẨN TRONG CÁC HỆ THỐNG TRƯỜNG HỌC THÀNH CÔNG Ở PHẦN LAN? Giáo viên ở Phần Lan là những chuyên gia có uy tín cao, được phép chịu trách nhiệm về quá trình học tập của học sinh. Họ có thể sử dụng bất kỳ phương pháp nào họ muốn miễn là họ biết những gì học sinh của họ đã học. Đó có thể là một bài kiểm tra viết không chuẩn hóa (thường là vậy, tuy nhiên, nhiều giáo viên tự thiết kế các bài kiểm tra để phù hợp với những gì họ đã dạy trên lớp học). Hoặc đó có thể là một bài kiểm tra viết mà bọn trẻ có thể trả lời trong khi chúng được phép tra cứu trong sách. Ý tưởng là dạy bọn trẻ tập trung vào bức tranh lớn và hiểu nguyên nhân cũng như hậu quả; giáo viên sẽ luôn có thể kiểm tra các chi tiết, vì vậy, không cần phải ghi nhớ mọi thứ. Đó cũng có thể là một dự án. Con gái tôi đang học địa lý của các nước Bắc Âu. Không có một bài kiểm tra để đánh giá kỹ năng của bọn trẻ sau khóa học; thay vào đó, giáo viên đã thực hiện một dự án nhóm phát minh ra một trò chơi cờ với bản đồ của các quốc gia Bắc Âu mà trong đó bọn trẻ phải trả lời các câu hỏi khi chơi trò chơi. Học sinh đã phải đọc các tài liệu, viết ra các câu hỏi, vẽ bản đồ trên một bìa carton lớn, phát minh ra các quy tắc và cuối cùng chơi trò chơi và trả lời các câu hỏi. Tất cả các nhóm đã chơi từng nhóm trò chơi khác trong lượt của mình. Đó là niềm vui, đó là sáng tạo, và bọn trẻ đã học mọi thứ cần phải học. Hơn nữa, tôi chắc chắn rằng bọn trẻ sẽ nhớ nhiều về bài học này hơn là làm bài kiểm tra với đầy thông tin, chi tiết. Hoặc đó có thể là một danh mục đầu tư dựa trên web. Con gái tôi có một danh mục như vậy. Đôi khi trẻ làm những gì phải học với một người bạn: một người đang giải thích, người kia đang quay video và sau đó bọn trẻ tải video vào danh mục đầu tư trên web. Hoặc chúng đưa những bức ảnh mà chúng chụp vào danh mục đầu tư của mình. Hoặc trẻ học chơi một bài hát với ukulele trong video và sau đó giáo viên có thể nghe trên danh mục đầu tư của học sinh. Đó là một cách dễ dàng để giáo viên theo dõi sự tiến bộ của học sinh để tiếp tục giảng dạy. Đôi khi, trẻ quyết định cách nào chúng muốn giáo viên biết những gì chúng đã học. Trẻ có thể viết một bài luận; có thể làm một video; có thể thuyết trình; có thể thực hiện một trò chơi hoặc bất cứ điều gì chúng muốn - miễn là điều đó cho thấy chúng đã học được những điểm chính của khóa học. Đồng thời, trẻ hiểu rõ hơn về bản thân và biết cách học cụ thể của riêng mình. Điều này được coi là quan trọng hơn nhiều về lâu dài so với việc lặp lại một số việc mà họ đã nghiên cứu để thử nghiệm. Tự đánh giá là một phần quan trọng của quá trình học tập ngay từ lớp một. Những đứa trẻ thường xuyên được yêu cầu nói cho giáo viên biết là chúng nghĩ rằng chúng đã học đủ. Mục đích là để dạy trẻ chịu trách nhiệm về quá trình học tập của chính chúng. Trẻ học một giáo viên trong suốt 3 -6 năm nên giáo viên hiểu rõ học sinh của mình đủ để có thể nói những gì chúng đã được học và những gì không. Những gì được coi là mục tiêu của đánh giá: trẻ em có học không? Nếu không, không ai chịu trách nhiệm. Mục đích của phản hồi này là để giúp giáo viên biết liệu một số học sinh của họ có cần thêm trợ giúp trong vấn đề cụ thể nào không. Đó không phải là một dấu hiệu thất bại của giáo viên hoặc đứa trẻ. Điều đó giúp giáo viên sẽ sử dụng một loại phương pháp giảng dạy khác vào lần tới; hoặc có thể một số trẻ cần sự giúp đỡ thêm của một số chuyên gia khác. Tất cả là do niềm tin. Các giáo viên đáng tin cậy: họ là những chuyên gia, họ hiểu rõ học sinh của mình hơn bất kỳ ai và họ được giao phó quá trình học tập của học sinh. Ở đó, không cần phải đánh giá các phương pháp giảng dạy của họ bằng các bài kiểm tra tiêu chuẩn; Họ biết rõ rằng họ cần cố gắng hết sức để học sinh của mình học tập. Nếu có gì đó không ổn, họ sẽ thử một cách khác. Tác giả Katja Kaila, Finland Nguyễn Việt Trung dịch
- 21 ý tưởng đơn giản để cải thiện động lực của học sinh
Những bài học, sách và tài liệu tốt nhất trên thế giới sẽ không khiến học sinh hào hứng với việc học và sẵn sàng làm việc chăm chỉ nếu chúng không có động lực. Động lực, cả bên trong và bên ngoài, là một yếu tố quan trọng trong sự thành công của học sinh ở tất cả các giai đoạn giáo dục và giáo viên đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp và khuyến khích động lực đó ở học sinh. Tất nhiên điều đó nói dễ hơn nhiều so với thực hiện, vì tất cả học sinh đều có động lực khác nhau và phải mất nhiều thời gian và công sức để học mới có được một lớp học đầy trẻ em nhiệt tình học tập, làm việc chăm chỉ và thúc đẩy bản thân vượt trội. Dù bạn là giáo viên mới hay người có kinh nghiệm, hãy thử sử dụng các phương pháp này để thúc đẩy học sinh của bạn và khuyến khích chúng sống đúng với tiềm năng thực sự của mình. 1. Tạo cho học sinh cảm giác kiểm soát Mặc dù hướng dẫn từ giáo viên là rất quan trọng để học sinh làm nhiệm vụ và có động lực, hãy cho phép học sinh có một số lựa chọn và kiểm soát những gì xảy ra trong lớp học thực sự là một trong những cách tốt nhất để giữ chúng tham gia. Ví dụ, cho phép học sinh chọn loại bài tập hoặc vấn đề nào cần giải quyết có thể mang lại cho chúng cảm giác kiểm soát có thể thúc đẩy chúng làm nhiều hơn. 2. Xác định mục tiêu Học sinh có thể rất bực bội khi phải hoàn thành bài tập hoặc thậm chí quậy trong lớp nếu không có mục tiêu được xác định rõ ràng. Học sinh muốn và cần biết những gì được mong đợi ở chúng để duy trì động lực làm việc. Vào đầu năm, hãy đặt ra các mục tiêu, quy tắc và kỳ vọng rõ ràng cho mỗi học sinh để không có sự nhầm lẫn và học sinh có mục tiêu để hướng tới. 3. Tạo môi trường không có mối đe dọa Mặc dù học sinh cần phải hiểu rằng khái niệm nhân quả gắn kết ngay với mỗi hành động của chúng, nhưng việc tạo động lực cho học sinh nhiều hơn các mối đe dọa là sự củng cố tích cực và hiệu quả của mỗi giáo viên. Khi giáo viên tạo ra một môi trường an toàn, hỗ trợ cho học sinh, khẳng định niềm tin của chúng vào khả năng của bản thân thay vì đặt ra hậu quả của việc không làm, học sinh có nhiều khả năng có được động lực và duy trì động lực để thực hiện công việc của mình. 4. Thay đổi cảnh quan Một lớp học là một nơi tuyệt vời để học tập, nhưng ngồi ở bàn ngày này qua ngày khác có thể khiến trường học bắt đầu có vẻ hơi buồn tẻ đối với một số học sinh. Để đổi mới sự quan tâm đến vấn đề hoặc chỉ trong học tập nói chung, hãy cho học sinh của bạn cơ hội ra khỏi lớp học. Thực hiện các chuyến đi thực địa, mang theo loa, hoặc thậm chí chỉ cần đến thư viện cho một số nghiên cứu. Bộ não yêu thích sự mới lạ và một thiết lập mới có thể là điều mà một số học sinh cần để duy trì động lực học tập. 5. Cung cấp kinh nghiệm đa dạng Không phải tất cả các học sinh sẽ trả lời các bài học theo cùng một cách. Đối với một số học sinh, kinh nghiệm thực hành có thể là tốt nhất. Những học sinh khác có thể thích đọc sách lặng lẽ hoặc làm việc theo nhóm. Để giữ cho tất cả các học sinh có động lực, hãy trộn lẫn các bài học của bạn để học sinh với những sở thích khác nhau sẽ có thời gian tập trung vào những điều chúng thích nhất. Làm như vậy sẽ giúp học sinh gắn bó và chú ý. 6. Sử dụng cạnh tranh tích cực Cạnh tranh trong lớp học không phải lúc nào cũng là điều xấu, và trong một số trường hợp có thể thúc đẩy học sinh cố gắng hơn và nỗ lực để trở nên xuất sắc. Làm việc để nuôi dưỡng tinh thần cạnh tranh thân thiện trong lớp học của bạn thông qua các trò chơi nhóm liên quan đến tài liệu hoặc các cơ hội khác để học sinh thể hiện kiến thức. 7. Cung cấp phần thưởng Mọi người đều thích nhận phần thưởng và cung cấp cho học sinh của bạn cơ hội có được phần thưởng là một nguồn động lực tuyệt vời. Những thứ như tiệc pizza, xem phim hay thậm chí là thứ đơn giản như nhãn dán trên giấy có thể khiến học sinh làm việc chăm chỉ hơn và thực sự hướng tới mục tiêu đạt được. Xem xét tính cách và nhu cầu của học sinh để xác định phần thưởng phù hợp cho lớp học của bạn. 8. Giao trách nhiệm cho học sinh Phân công công việc của học sinh trong lớp là một cách tuyệt vời để xây dựng một cộng đồng và mang đến cho học sinh cảm giác có động lực. Hầu hết các học sinh sẽ xem các công việc trong lớp là một đặc quyền chứ không phải là một gánh nặng và sẽ làm việc chăm chỉ để đảm bảo rằng họ và các học sinh khác đang đáp ứng mong đợi. Cũng có thể hữu ích khi cho phép học sinh thay phiên nhau dẫn dắt các hoạt động hoặc giúp đỡ để mỗi người cảm thấy quan trọng và có giá trị. 9. Cho phép học sinh làm việc cùng nhau Mặc dù không phải tất cả các học sinh sẽ nhảy vào cơ hội làm việc theo nhóm, nhưng nhiều học sinh sẽ cảm thấy thú vị khi cố gắng giải quyết vấn đề, làm thí nghiệm và thực hiện các dự án với các học sinh khác. Sự tương tác xã hội có thể khiến chúng hào hứng với những thứ trong lớp và chúng có thể thúc đẩy nhau đạt được mục tiêu. Giáo viên cần đảm bảo rằng các nhóm được cân bằng và công bằng, tuy nhiên, chú ý để một số học sinh không làm việc nhiều hơn hay ít hơn những người khác. 10. Hãy khen ngợi Không có hình thức tạo động lực nào khác tốt như khuyến khích. Ngay cả khi trưởng thành, chúng ta đều khao khát sự công nhận và khen ngợi, và học sinh ở mọi lứa tuổi cũng không ngoại lệ. Giáo viên có thể cung cấp cho học sinhphần thưởng của động lực bằng cách khen thưởng thành công công khai, khen ngợi cho một công việc được thực hiện tốt và chia sẻ công việc gương mẫu. 11. Khuyến khích tự suy nghĩ Hầu hết trẻ em muốn thành công, chúng chỉ cần giúp đỡ để tìm ra những gì chúng cần làm để đạt được điều đó. Một cách để thúc đẩy học sinh của bạn là khiến chúng nhìn kỹ vào bản thân và xác định điểm mạnh và điểm yếu của mình. Học sinh thường có động lực hơn nhiều bằng cách tạo ra những loại phê bình này của bản thân hơn là nhờ một giáo viên làm điều đó cho chúng, vì nó khiến chúng cảm thấy có trách nhiệm tạo ra các mục tiêu và mục tiêu của riêng mình. 12. Hãy hào hứng Một trong những cách tốt nhất để khiến học sinh của bạn có động lực là chia sẻ sự nhiệt tình của bạn. Khi bạn hào hứng với việc giảng dạy, học sinh sẽ hào hứng hơn nhiều với việc học. 13. Biết học sinh của bạn Làm quen với học sinh của bạn không chỉ là ghi nhớ tên của họ. Học sinh cần biết rằng giáo viên của chúng có một sự quan tâm thực sự đối với chúng và quan tâm đến thành công của chúng. Khi học sinh cảm thấy được đánh giá cao, nó tạo ra một môi trường học tập an toàn và thúc đẩy học sinh làm việc chăm chỉ hơn, vì chúng muốn nhận được lời khen ngợi và phản hồi tốt từ một người mà chúng cảm thấy biết và tôn trọng chúng. 14. Khai thác lợi ích của học sinh Biết học sinh của bạn cũng có một số lợi ích khác, cụ thể là nó cho phép bạn liên hệ tài liệu lớp học với những điều mà học sinh quan tâm hoặc đã trải nghiệm. Giáo viên có thể sử dụng những sở thích này để làm cho mọi thứ thú vị hơn và dễ hiểu hơn với học sinh, giữ cho học sinh có động lực lâu hơn. 15. Giúp học sinh tìm thấy động lực nội tại Thật tuyệt vời để giúp học sinh có động lực, nhưng vào cuối ngày học sinh cần tạo ra động lực của riêng mình. Giúp học sinh tìm ra lý do cá nhân của riêng mình để làm việc trên lớp và làm việc chăm chỉ, cho dù lý do đó là thấy thú vị về vật chất, muốn đi học đại học hoặc chỉ đơn giản là thích học, … là một trong những món quà mạnh mẽ nhất bạn có thể tặng cho họ. 16. Quản lý sự lo lắng của học sinh Một số học sinh thấy triển vọng của việc họ làm không tốt đến mức gây lo lắng và nó trở thành một lời tiên tri cho sự tự hoàn thành. Đối với những học sinh này, giáo viên có thể thấy rằng họ có động lực nhất khi học là đấu tranh với một môn học không phải là ngày tận thế. Cung cấp hỗ trợ cho dù kết quả cuối cùng là thế nào và đảm bảo rằng học sinh không cảm thấy quá choáng ngợp trước những kỳ vọng mà họ vừa từ bỏ. 17. Thực hiện mục tiêu cao nhưng có thể đạt được Nếu bạn không thúc ép học sinh của mình làm nhiều hơn mức tối thiểu, hầu hết chúng sẽ không tự mình cố gắng. Học sinh thích được thử thách và sẽ làm việc để đạt được những kỳ vọng cao miễn là chúng tin rằng những mục tiêu đó nằm trong tầm tay, vì vậy đừng ngại thúc đẩy học sinh nhận được nhiều hơn. 18. Đưa ra phản hồi và cung cấp cơ hội để cải thiện Học sinh phải vật lộn với công việc trên lớp đôi khi có thể cảm thấy thất vọng và trùng xuống, rút cạn động lực. Trong những tình huống này, điều quan trọng là giáo viên giúp học sinh học chính xác cái chúng đã sai và cách chúng có thể cải thiện vào lần tới. Tìm ra một phương pháp để học sinh muốn cũng có thể là giúp chúng có động lực làm việc chăm chỉ. 19. Theo dõi tiến độ Học sinh có thể khó nhìn thấy chúng đã đi được bao xa, đặc biệt là với những môn học khó. Không chỉ giáo viên mà cả học sinh cùng theo dõi mức độ tiến bộ. Giáo viên có thể sử dụng điều này như một cách để thúc đẩy học sinh, cho phép họ nhìn trực quan xem chúng đang học và cải thiện bao nhiêu khi năm học tiếp diễn. 20. Làm cho mọi thứ vui vẻ Không phải tất cả các công việc trong lớp đều cần phải là một trò chơi hay một thời gian hoàn hảo, nhưng những học sinh coi trường học là nơi có thể vui chơi sẽ có động lực hơn vào chú ý và thực hiện công việc cần thiết của chúng. Thêm các hoạt động vui chơi vào ngày học của bạn có thể giúp các học sinh đấu tranh để tiếp tục tham gia và biến lớp học thành một nơi thân thiện hơn nhiều cho tất cả học sinh. 21. Cung cấp cơ hội để thành công Học sinh, ngay cả những người giỏi nhất, có thể trở nên thất vọng và mất hứng thú khi cảm thấy như đang vật lộn hoặc không nhận được sự công nhận bằng các học sinh khác. Hãy chắc chắn rằng tất cả các học sinh có cơ hội để chơi với những điểm mạnh của chúng và cảm thấy được có giá trị. Đó có thể là tạo ra một thế giới khác biệt cho động lực của chúng. Sưu tầm
- Chọn nghề hay chọn điểm tựa?
Bạn ấy cùng anh và 3 nhóc đến gặp mình lần đầu với mong muốn hiểu con để tiết kiệm thời gian, sức lực và tiền bạc trong việc đầu tư nuôi dạy con. Gặp ngày đẹp trời nên mình đã miễn phí cho bạn ấy và anh trai gói PHONG CÁCH GIÁO DỤC CON! Điều bất ngờ là sau khi tư vấn cho con và gói miễn phí xong, bạn ấy liền đề nghị cho bạn ấy làm gói BÍ MẬT BẨM SINH DI TRUYỀN hoàn hảo! Hôm nay nhận được kết quả phân tích mẫu vân chân, vân tay và vân ngón tay của bạn, mình mừng quá. Mình đã phát hiện ra vì sao bạn ấy lại thu mình, thiếu chủ động trong công việc, ngại ra khỏi nhà,... Mình đã trả lời được câu hỏi tại sao bạn ấy. đang ở tuổi băm mà không có mục tiêu phấn đấu, hay nguyên tắc làm việc rõ ràng trong cuộc sống. Là một kế toán mà tính nguyên tắc của bạn chỉ có 9% , nghĩa là đầu bạn quên đội chính sách và vai bạn chỉ mang chút ít chứng từ! Là một quản lý nhưng tính mục tiêu của bạn ấy chỉ có 6%! Ở đời, đôi khi cái may lại là cái rủi! Bạn ấy là người rất thông minh, có khả năng học tập và làm việc trên rất nhiều lĩnh vực, vì vậy khi được một đại gia là người nhà đỡ đầu cho việc làm với mức lương rất cao thì bạn đã vui mừng và đón nhận công việc đại gia đó giao mà khg chút lưỡng lự hay băn khoăn rằng nghề đó có phải là nghề hợp nhất với mình không! Theo các bạn một người có đôi hoa chân với sinh lực rất dồi dào, với tốc độ phản ứng rất nhanh nhậy, có ý thức, giầu tình cảm và nổi trội về khả năng giao tiếp, lãnh đạo, tính toán, lập kế hoạch, vận động không gian, âm nhạc và biểu đạt ngôn ngữ thì hợp với việc gì? và phải tránh xa việc gì? Bạn ấy hoàn toàn có thể là một vận động viên xuất sắc, một huấn luyện viên tài ba, một nhà đầu tư nổi tiếng,... nếu bạn ấy theo đuổi ngành thể dục thể thao. Bạn ấy cũng có thể là một MC, một diễn giả, một nhà marketing, một nhà tâm lý, giáo dục thành công, có thể để lại những dấu ấn khó quên trong lĩnh vực hoạt động nghề của mình. Nhưng bạn ấy chắc chắn không thể là một nhà kế toán thành công rực rỡ với chỉ số về thị giác quá thấp, tính giầu cảm xúc, phản ứng cực nhanh, dù bạn có tính cẩn thận và cầu toàn là một phẩm chất cần có của một nhà kế toán. Năm tháng trôi đi công việc kế toán đã biến bạn thành một người khác hẳn với sứ mệnh bẩm sinh của bạn. Liệu bạn ấy có dám tìm một cơ hội việc làm phù hợp hơn với mình trong hoặc ngoài mối quan hệ với đại gia người nhà hay không nhỉ??? Nguồn: GV Thuý Gene Vân Da nhóm DHTC
- Kỹ thuật quản lý lớp học: Phương pháp hiệu quả tăng tương tác giữa giáo viên và học sinh
Làm thế nào để giáo viên có thể tạo ra một môi trường học tập tích cực và hiệu quả? Trong bối cảnh giáo dục hiện đại, việc quản lý và điều phối lớp học là yếu tố then chốt để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Những kỹ thuật và phương pháp tiên tiến không chỉ giới thiệu các công cụ hỗ trợ mà còn cung cấp những bí quyết thực tiễn giúp giáo viên khơi dậy sự hứng thú và chủ động học tập ở học sinh. Đây là một vấn đề quan trọng mà mọi nhà giáo dục nên quan tâm để mang lại những thay đổi tích cực trong lớp học của mình. Tạo động lực và sự hứng thú cho học sinh Một trong những yếu tố quan trọng nhất trong việc quản lý lớp học là khả năng tạo động lực và khơi gợi sự hứng thú cho học sinh. Giáo viên có thể áp dụng các kỹ thuật sau: 1. Tạo nhu cầu học tập Sử dụng tình huống thực tế: Đưa ra các tình huống liên quan đến đời sống hàng ngày của học sinh để họ thấy được tính ứng dụng của kiến thức. Ví dụ, trong môn Toán, giáo viên có thể đưa ra các bài toán liên quan đến việc quản lý chi tiêu cá nhân, mua bán hằng ngày,... Trò chơi học tập: Kết hợp trò chơi vào bài giảng để tăng cường sự tham gia và hứng thú của học sinh. Một cuộc thi nhỏ về kiến thức hoặc một trò chơi giải đố có thể làm cho bài học trở nên thú vị hơn. 2. Khuyến khích sự tham gia Thảo luận nhóm: Tạo cơ hội cho học sinh làm việc nhóm và thảo luận về các chủ đề bài học. Việc này không chỉ giúp học sinh học hỏi lẫn nhau mà còn phát triển kỹ năng làm việc nhóm và năng lực giao tiếp. Phản biện và trình bày ý kiến: Khuyến khích học sinh nêu ý kiến cá nhân và tham gia vào các cuộc tranh luận mang tính xây dựng. Điều này giúp học sinh phát triển khả năng tư duy phê phán và tự tin hơn trong việc bày tỏ quan điểm. Vai trò của giáo viên trong quản lý lớp học Giáo viên đóng vai trò then chốt trong việc quản lý và điều phối lớp học. Có hai vai trò chính mà giáo viên cần thực hiện: 1. Người dạy (Teacher) Truyền đạt kiến thức: Giáo viên cần đảm bảo rằng kiến thức được truyền đạt một cách rõ ràng và dễ hiểu. Sử dụng các phương pháp giảng dạy truyền thống kết hợp với công nghệ hiện đại để tăng hiệu quả. Kiểm tra và đánh giá: Thường xuyên kiểm tra và đánh giá tiến độ học tập của học sinh để điều chỉnh phương pháp giảng dạy phù hợp. 2. Người hướng dẫn (Facilitator) Hỗ trợ tự học: Khuyến khích học sinh tự tìm hiểu và khám phá kiến thức qua các dự án, bài tập nghiên cứu. Giáo viên chỉ đóng vai trò hướng dẫn và cung cấp tài nguyên cần thiết. Giải quyết vấn đề: Hỗ trợ học sinh phát triển năng lực giải quyết vấn đề thông qua các bài tập thực tế và các hoạt động học tập mang tính thử thách. Sứ mệnh của người truyền lửa Giáo viên không chỉ là người truyền đạt kiến thức mà còn là người truyền lửa, khơi gợi niềm đam mê và tình yêu học tập cho học sinh. Để thực hiện sứ mệnh này, giáo viên cần: 1. Linh hoạt trong giảng dạy Kết hợp nhiều phương pháp: Sử dụng đa dạng các phương pháp giảng dạy để phù hợp với nhu cầu và khả năng học tập của từng học sinh. Điều chỉnh theo thực tiễn: Luôn cập nhật và điều chỉnh phương pháp giảng dạy dựa trên phản hồi và kết quả thực tế của học sinh. 2. Tạo môi trường học tập tích cực Khuyến khích sáng tạo: Tạo điều kiện cho học sinh thể hiện sự sáng tạo và khám phá những cách tiếp cận mới trong học tập. Xây dựng mối quan hệ tốt: Thiết lập mối quan hệ tốt với học sinh dựa trên sự tôn trọng và khích lệ. Kết Luận Quản lý và điều phối lớp học hiệu quả đòi hỏi sự kết hợp giữa kỹ năng giảng dạy, khả năng tạo động lực và sự tận tâm của giáo viên. Bằng cách áp dụng các phương pháp và kỹ thuật phù hợp, giáo viên có thể tạo ra một môi trường học tập tích cực, giúp học sinh phát triển toàn diện cả về kiến thức và kỹ năng. Sự thành công của lớp học không chỉ dựa vào giáo trình hay công nghệ mà còn phụ thuộc vào sự sáng tạo và nhiệt huyết của người thầy. Việc áp dụng các kỹ thuật và phương pháp quản lý lớp học đã được trình bày không chỉ giúp nâng cao hiệu quả giảng dạy mà còn mang lại nhiều lợi ích lâu dài cho học sinh, bao gồm phát triển kỹ năng tư duy, khả năng làm việc nhóm, và sự tự tin trong việc bày tỏ ý kiến. Nếu bạn là một giáo viên hoặc người làm trong lĩnh vực giáo dục, hãy bắt đầu áp dụng những phương pháp này để thấy rõ sự khác biệt. Hãy cùng nhau xây dựng những lớp học hạnh phúc, nơi mà học sinh không chỉ học hỏi mà còn cảm thấy yêu thích việc học tập mỗi ngày! Hoài Mơ
- 10 sự thật về hệ thống giáo dục Phần Lan
Hệ thống giáo dục Phần Lan là một chủ đề nổi tiếng đáng ngạc nhiên ở khu vực Mỹ Latinh. Chủ đề này được đề cập ở mọi nơi: trên các tờ báo, trên kênh truyền hình, trên các phương tiện truyền thông xã hội và trên phim tài liệu. Khi nghe tin tôi tới từ Phần Lan và sau khi hỏi tôi hàng loạt các câu hỏi, nhiều người nói: “Sissi, Điều tuyệt vời của hệ thống giáo dục Phần Lan là gì vậy?” 10 SỰ THẬT VỀ HỆ THỐNG GIÁO DỤC PHẦN LAN Hệ thống giáo dục Phần Lan là một chủ đề nổi tiếng đáng ngạc nhiên ở khu vực Mỹ Latinh. Chủ đề này được đề cập ở mọi nơi: trên các tờ báo, trên kênh truyền hình, trên các phương tiện truyền thông xã hội và trên phim tài liệu. Khi nghe tin tôi tới từ Phần Lan và sau khi hỏi tôi hàng loạt các câu hỏi, nhiều người nói: “Sissi, Điều tuyệt vời của hệ thống giáo dục Phần Lan là gì vậy?” Thực tế là hầu hết các thông tin mà các phương tiện truyền thông lan truyền về hệ thống giáo dục Phần Lan hoàn toàn vô lý. Có rất nhiều thông tin sai lệch, và ngay cả khi thông tin đó có phần đúng, thì cũng có rất nhiều thông tin cơ bản và giải thích bị thiếu. Ví dụ, Khi tờ báo chính thống của Argentina, Clarín viết một bài báo về “những đứa trẻ Phần Lan không có bài tập về nhà” thì tài liệu tham khảo duy nhất của họ là bộ phim tài liệu của Michael Moore. Điều tôi băn khoăn là tại sao một tờ báo quan trọng có thể đưa một bài báo về một bộ phim tài liệu được quay trong chỉ có một tuần ở Phần Lan với chức năng không chỉ để cung cấp thông tin mà còn để giải trí? Hơn nữa, điểm quan trọng là ở đây bài báo chỉ đưa thông tin, mà không nói lý do tại sao hoặc không bận tâm giải thích những gì đã được thay thế cho việc không có bài tập về nhà. Vậy, hãy để tôi thử đưa ý kiến của tôi về giáo dục Phần Lan cho các bạn xem sao. Thông tin từ giáo viên và phụ huynh Chính tôi đã làm luận án thạc sĩ về sách học ở Phần Lan và tôi đã làm giáo viên dạy thay ở trường tiểu học và trung học cơ sở ở đó. Mặc dù vậy, tôi cho rằng những người cung cấp thông tin tốt nhất cho một bài báo về giáo dục Phần Lan sẽ là các giáo viên và phụ huynh Phần Lan, những người hiện đang tham gia tích cực trong hệ thống giáo dục. Do đó, ngoài việc giải thích những điểm chính của hệ thống giáo dục Phần Lan, tôi cũng muốn giải đáp một số ý kiến thường gặp nhất ở cuối bài viết này. Giáo dục là chìa khóa Bỏ qua nhiều điều mà Phần Lan chắc chắn có thể cải thiện, điều khiến Phần Lan trở nên đặc biệt so với nhiều quốc gia khác là tất cả công dân Phần Lan được tiếp cận với giáo dục cơ bản. Và tôi tin rằng đây là bí mật cho một xã hội chức năng. Một số người có thể lập luận rằng trẻ em Phần Lan được đào tạo để trở thành người ngoan ngoãn theo luật, công dân tư bản chủ nghĩa (trong đó tôi đồng ý một phần), nhưng tôi vẫn tin rằng giáo dục là chìa khóa để chống lại nghèo đói và bất bình đẳng (Trên thực tế, cho đến nay có rất ít người rất nghèo hoặc rất giàu ở Phần Lan). Tôi sẽ không đề cập đến những gì học sinh Phần Lan thích hay những gì chúng làm sau khi học xong, nhưng điều tôi nhận thấy là hệ thống giáo dục Phần Lan khác với phần còn lại của thế giới. Vì vậy, hãy bắt đầu cùng tôi xem xét nhé. 1. Bình đẳng giữa các trường Phần Lan là một đất nước không có trường học thượng lưu đắt tiền. Trên thực tế, việc thu phí cho giáo dục bắt buộc là bất hợp pháp ở quốc gia này. Về mặt lý thuyết, tất cả các trường tiểu học và trung học cơ sở của Phần Lan đều bình đẳng và cung cấp cùng một trình độ học vấn cho tất cả học sinh. Thực tế là tất cả mọi người, bất kể thu nhập của họ thế nào, đều được cung cấp một nền giáo dục như nhau. Đó là lý do tại sao về mặt thống kê, hệ thống trường học Phần Lan vượt trên các nước khác với số đông kết quả tốt, trong khi, ví dụ ở Mỹ có một khoảng cách rất lớn giữa những sinh viên rất giỏi và những sinh viên gần như không biết gì. Hơn nữa, do không có các trường thượng lưu, cả quốc gia muốn nền giáo dục công lập phải tốt. Mặc dù hệ thống giáo dục Phần Lan đã bị chỉ trích vì những cá nhân hàng đầu không có khả năng phát triển, nhưng hầu hết người Phần Lan vẫn thích giáo dục bình đẳng cho mọi người bất kể thu nhập hơn là giáo dục thượng lưu. 2. Nghề giáo viên được tôn trọng Ở Phần Lan, giáo viên là những người có trình độ học vấn cao, được quý trọng và độc lập về giáo dục. Các kế hoạch giáo dục mở hơn nhiều so với các quốc gia khác, vì vậy bản thân giáo viên khá tự do quyết định cách họ dạy. Hơn nữa, các kỳ thi tuyển giáo viên rất khó, và có nhiều cạnh tranh. Điều này có nghĩa là các giáo viên, những người hiện đang xin việc giảng dạy và thực sự trở thành giáo viên, thường là những cá nhân thông minh, tài năng và có động lực. Ví dụ, giáo viên ngôn ngữ ở Phần dạy rất tốt và sử dụng những ngôn ngữ này với học sinh trong lớp. Đây không phải là trường hợp ở khắp mọi nơi, vì ở một số quốc gia, có những người học để trở thành giáo viên chỉ đơn giản vì họ đã không chấp nhận học bất cứ điều gì khác. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, do uy tín của nghề giáo, công việc của một giáo viên được trả lương khá cao ở Phần Lan. 3. Trẻ em bắt đầu đi học khi đã sẵn sàng Ở Phần Lan, trẻ em bắt đầu đi học từ năm 7 tuổi. Ở nhiều quốc gia, điều này chưa từng nghe thấy. Ví dụ, ở Argentina và Paraguay, trẻ em bắt đầu đi học từ năm 4 tuổi. Tuy nhiên, đã có chứng minh một cách khoa học rằng ở tuổi này, trẻ em không có cách nào sẵn sàng để ngồi xuống lớp và cầm bút chì trên tay. Trên thực tế, không chỉ trẻ không sẵn sàng về mặt tinh thần, mà cả kỹ năng vận động của chúng cũng chưa sẵn sàng cho việc học. Nghĩ mà xem, Có gì lạ đâu nếu động lực của trẻ bị mất khi phải thực hiện một việc gì đó mà chúng không sẵn sàng về mặt sinh học? Hơn nữa, khi trẻ em đi học, kết quả của chúng được kiểm soát. Ví dụ, trẻ không thể học đến lớp 3 mà không biết đọc và không hiểu ai đó đang đọc gì. 4. Nhấn mạnh vào nghiên cứu sư phạm Phần Lan là một quốc gia chú trọng phát triển trẻ em và nghiên cứu sư phạm. Các kết quả nghiên cứu của tâm lý học phát triển và tâm lý học tập được áp dụng rất nhiều trong giảng dạy, và rất nhiều điều quan trọng được dành cho việc học thực sự có nghĩa gì. Theo như mục tiêu học tập, động lực bên trong của học sinh có lẽ là yếu tố cá nhân quan trọng nhất. Vì vậy, việc dạy học cũng được coi là hiệu quả khi tập trung vào việc tìm kiếm và nuôi dưỡng động lực bên trong này. Rất cơ bản và lý tưởng; Giáo dục Phần Lan là để những đứa trẻ không chỉ ghi nhớ bằng trái tim mà còn học cách suy nghĩ phân tích. (Tất nhiên, ngay cả ở Phần Lan, nhiều sinh viên vẫn chống lại những vấn đề xã hội khắc nghiệt như vậy ở nhà, rằng việc tìm kiếm động lực bên trong có thể không phải là ưu tiên số một của anh ấy hoặc cô ấy.). 5. Tầm quan trọng của động lực bên trong Trong giáo dục định hướng học sinh, học sinh được khuyến khích suy nghĩ, hiểu và tự tìm kiếm thông tin. Trẻ thậm chí được khuyến khích để tìm câu hỏi mà ngay cả giáo viên của họ có thể không có câu trả lời. Trong trường hợp này, các câu trả lời được cùng nhau tìm ra. Giáo viên đi vòng quanh trong lớp học, dẫn dắt học sinh đến kết luận và khuyên bảo những học sinh cần giúp đỡ nhất (trái ngược với giáo dục do giáo viên điều khiển, nơi giáo viên dạy và trẻ lắng nghe). Giáo viên khen ngợi, động viên và khuyến khích. Hơn nữa, ngay cả việc đánh giá không xảy ra dưới hình thức một bài kiểm tra cuối cùng, các học sinh tựđánh giáchính mình (ví dụ, bằng cách đặt ra các mục tiêu cá nhân cho bản thân vào đầu năm học, hoặc thậm chí là thường xuyên như mọi tuần, sau đó trẻ đánh giá cùng với giáo viên vào cuối nhiệm kỳ được xác định trước). Ngay từ khi còn rất nhỏ, trẻ học cách chịu trách nhiệm việc học của mình - và học hy vọng xuất phát từ động lực bên trong, không phải do cha mẹ hoặc các kỳ thi (= động lực bên ngoài). Do đó, gian lận trong các kỳ thi cũng không phổ biến như ở một số quốc gia khác. 6. Không có tiêu chuẩn nghiêm ngặt trong phương pháp giảng dạy Có ít bài kiểm tra hơn ở các nước khác, vì quan điểm của trường không phải là để vượt qua bài kiểm tra mà là để học. Cũng không có bài kiểm tra chuẩn hóa, toàn quốc, ngoại trừ kỳ thi tuyển sinh khi hoàn thành chương trình cao cấp nghề. Điều này cũng có nghĩa là có rất nhiều đối thủ cạnh tranh như ở các nước khác. Điều quan trọng cần lưu ý về hệ thống Phần Lan là giáo viên cũng có nhiều tự do trong giảng dạy. Tất nhiên, có một chương trình giảng dạy toàn quốc, nhưng giáo viên có thể tự do thực hiện nội dung của nó với các phương pháp mà mình chọn. Điều này không chỉ làm cho trẻ em, mà còn khiến giáo viên có động lực hơn khi có thể sử dụng sự sáng tạo và chiến lược của riêng mình trong giảng dạy. Ở đây, điều quan trọng cần lưu ý những gì tôi đã nói trước đây: giáo viên Phần Lan là những người có trình độ học vấn cao, được quý trọng và độc lập. 7. Giáo dục đặc biệt trong trường Trong các lớp học trên thế giới, có những học sinh học mọi thứ nhanh hơn những người khác và có những học sinh học chậm hơn. Trong một số hệ thống, những đứa trẻ không học mọi thứ nhanh như các bạn cùng lứa, buộc phải học lại một lớp. Ở các nước khác, phụ huynh khá giả, trả tiền cho giáo viên và lớp học riêng. Tuy nhiên, ở Phần Lan, rất nhiều nhấn mạnh được đặt vào giáo dục đặc biệt: Khi một đứa trẻ không học mọi thứ nhanh như các bạn cùng lứa, một giáo viên giáo dục đặc biệt được chỉ định để giúp nó. Điều này không chỉ giúp học sinh đó, mà còn đảm bảo hòa bình trong lớp học cho những học sinh khác. Vì vậy, không có nhu cầu cho các lớp học tư nhân tốn kém ngoài trường học, bởi vì công việc của trường là cung cấp giáo dục cho trẻ. Do đó, thật lý tưởng vì không ai bị bỏ lại sau một mình. Tuy nhiên, khi nguồn lực bị cắt giảm và quy mô lớp học tăng lên, Phần Lan có thể phải đối mặt với những thách thức trong giáo dục đặc biệt trong tương lai. 8. Học bằng cách làm Khi nói về những đứa trẻ Phần Lan “học bằng cách chơi”, câu hỏi đặt ra là việc sử dụng các thói quen tự nhiên của một đứa trẻ trong việc học bằng cách làm như thế nào? Tuy nhiên, chơi trong trường học không phải là bất kỳ loại chơi nào – “chơi” luôn có một mục đích sư phạm. Khi học bằng cách làm, người ta nội tâm hóa mọi thứ tốt hơn so với khi học bằng cách ghi nhớ. Nó cũng tạo ra niềm vui cho việc học, một lần nữa làm tăng động lực học tập bên trong của trẻ. Trong cái gọi là phương pháp học tập khám phá, một đứa trẻ bị thu hút vào việc quan tâm đến một hiện tượng và tự mình nghiên cứu nó. Ở đây, vai trò của một giáo viên biến đổi nhiều hơn thành vai trò của một người cố vấn hoặc một người thúc đẩy - một người hướng dẫn và hướng dẫn trong quá trình học tập. Học sinh không chỉ thụ động tiếp nhận thông tin mà được chuyển đổi thành một người học tích cực. Vì vậy, một lần nữa: giáo dục Phần Lan là học cách suy nghĩ thay vì học thuộc lòng. Nó nói về động lực bên trong thay vì động lực bên ngoài. 9. Bài tập về nhà ít và ngày học ngắn Trong các trường học ở Phần Lan, bài tập về nhà ít hơn rất nhiều so với ở các nước khác. Theo hệ tư tưởng giáo dục Phần Lan, trẻ em được cho là được dạy ở trường, không phải ở nhà. Hơn nữa, nếu bài tập về nhà của trẻ đã được thực hiện ở trường, tại sao lại phải tiếp tục vào thời gian rảnh? Ở nhiều quốc gia khác, trẻ em nhận được nhiều bài tập về nhà hơn mức chúng có thể xử lý. Thêm nữa, bài tập về nhà thường khó đến nỗi cha mẹ chúng phải giúp chúng hoặc phải trả tiền cho gia sư để giúp con họ làm bài tập về nhà. Về thời gian đi học, trẻ em Phần Lan dành ít thời gian đến trường hơn trẻ em ở các quốc gia khác. Điều này là để thời gian cho trẻ sống đúng là trẻ em, và tận hưởng thời gian rảnh rỗi của chúng. Đối với mục đích học tập, điều quan trọng là để não nghỉ ngơi và dành thời gian cho những việc khác. 10. Bữa ăn tại trường cho tất cả! Có thể không có vẻ quan trọng chút nào và có thể đó là một chủ đề bị chỉ trích nhiều ở Phần Lan, nhưng Phần Lan là một đất nước với những bữa ăn tuyệt vời ở trường. Thứ nhất, thực tế là có những bữa ăn ở trường rất khác với thực tế của nhiều quốc gia khác. Trẻ em Phần Lan ăn ở trường, và thực phẩm chúng ăn rất đa dạng, bổ dưỡng, tốt cho sức khỏe (ít nhất là theo một số tiêu chuẩn). Hơn nữa, các bữa ăn ở trường là miễn phí (được trả thông qua thuế), vì vậy không ai bị bỏ lại. Điều này rất quan trọng vì nó cung cấp cho trẻ em năng lượng cần thiết để giúp chúng vượt qua ngày học, đồng thời đảm bảo rằng mọi người đều được cho ăn như nhau và tốt - ít nhất một lần một ngày. Vâng, đó là Phần Lan! Nhiều tranh luận đưa ra tại sao những điều đó không được thực hiện ở nơi khác. Khi nói về hệ thống giáo dục Phần Lan, có hàng triệu tranh luận tại sao điều đó sẽ không bao giờ được thực hiện ở nước khác. Đó là một chủ đề được nhiều người quan tâm trên lý thuyết, nhưng khi nói đến việc thực hiện thực tế thì sự quan tâm của mọi người dường như mất dần. Dưới đây là những lý lẽ phổ biến nhất mà tôi đã nghe và nhận xét của tôi về những nhận xét đó. “Phần Lan là một quốc gia giàu có” Đất nước Phần Lan không giàu. Mọi người thường lầm tưởng rằng Phần Lan có một hệ thống giáo dục tốt, bởi vì Phần Lan là một quốc gia giàu có. Tuy nhiên, trong những năm sau chiến tranh (60 năm trước), Phần Lan vẫn là một quốc gia đang phát triển. Do đó, hệ thống giáo dục Phần Lan thực sự là một câu chuyện thành công mà thậm chí nhiều người Phần Lan không thể nhận ra. Trên thực tế, vào giữa những năm 1940, Phần Lan vẫn đang trả các khoản nợ cho Nga và cả nước đang khủng hoảng. Vào những năm 1950, khi cải cách giáo dục lần đầu tiên được đề xuất, đảng cánh hữu đã chống lại nó, coi đó là cộng sản. Chỉ trong những năm 1960, cùng với quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa và quyết định đầu tư vào giáo dục, đất nước này bắt đầu trỗi dậy từ đống tro tàn. Một đất nước không giàu chỉ vì nó được sinh ra giàu có. Trên thực tế, xem xét tài nguồn tài nguyên thiên nhiên của một quốc gia tối tăm phủ đầy tuyết mọi thời khắc như Phần lan thì chắc chắn có những quốc gia trên thế giới này giàu có hơn. “Ở Phần Lan, người dân đóng thuế” Lập luận thứ hai về lý do tại sao mọi người nghĩ rằng hệ thống Phần Lan đã không thực hiện được tại các quốc gia của họ là vì “người dân ở Phần Lan phải trả thuế, còn ở nước họ thì không như vậy”. Về điều này, tôi không thể không đồng ý với họ. Mặc dù Phần Lan có giáo dục miễn phí, cha mẹ chúng tôi đã hào phóng trả tiền dưới hình thức thuế cả đời họ. Trên thực tế, những người Phần Lan chúng tôi học ở trường và từ cha mẹ của chúng tôi, rằng các khoản thuế phải được trả. Mặc dù Phần Lan cũng có những người trốn thuế, nhưng hầu hết mọi người đều vui vẻ nộp thuế. Điều này, tất nhiên, không đúng với tất cả các nước. Tuy nhiên, bất cứ điều gì là văn hóa, là giáo dục đều có thể được thay đổi; sự trung thực đến từ giáo dục. Tuy nhiên, thay đổi chậm và ngay cả ở Phần Lan, sự thay đổi này đến từ nhiều nỗ lực của nhiều thế hệ. Tình hình hiện nay là do các quyết định chính trị và đổi mới, coi trọng sự bình đẳng giữa các cá nhân và tình hình không ngừng phát triển. “Các chính trị gia của chúng tôi không muốn đầu tư vào giáo dục” Luận điểm thứ ba là: các chính trị gia của chúng tôi không muốn đầu tư vào giáo dục của chúng tôi, bởi vì sự thiếu hiểu biết của quần chúng là tốt cho họ. Đây là một trong những khó khăn. Cuối cùng, chất lượng giáo dục có lợi cho tất cả. Bây giờ, tôi nhận thấy không phải tất cả các trường học trên thế giới đều giống nhau vào lúc này, nhưng điều đó không phải là vấn đề. Vấn đề là, thay đổi cần phải bắt đầu từ đâu. Tuy nhiên, làm thế nào để bắt đầu thay đổi một hệ thống khi những người có quyền lực không muốn thay đổi nó? Làm thế nào để thay đổi một hệ thống tham nhũng? Tôi thực sự không có câu trả lời ngay lập tức cho vấn đề này, nhưng tôi tin rằng câu trả lời là “con người”. Phương tiện truyền thông xã hội, bất cứ điều gì. Chúng ta đã thấy sức mạnh hay con người trong quá khứ và tôi chắc chắn chúng ta cũng sẽ thấy nó trong tương lai. Khi mọi người tin vào sự thay đổi, họ có thể làm cho nó xảy ra. Tuy nhiên, thật đáng buồn, nhiều người không nghĩ vậy (như bạn có thể nhận thấy khi nhìn vào suy nghĩ của chính bạn ngay bây giờ). Nhưng mọi người là câu trả lời, vì vậy hãy truyền bá thông điệp, nếu bạn nghĩ nó quan trọng! Huyền thoại về hệ thống giáo dục Phần Lan Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, hãy để tôi giải quyết một số huyền thoại trên mạng xã hội về vấn đề tại sao Phần Lan có nền giáo dục tốt nhất trên thế giới. “Trường học hoàn toàn miễn phí.” Trường tiểu học có. Ở trường trung học phổ thông, bạn phải trả tiền cho sách học của bạn. “Không có đồng phục học sinh và bạn có thể ăn mặc như bạn muốn.” Bạn không được phép mặc, ví dụ, đội một chiếc mũ trong lớp học. Tuy nhiên, tôi không tin rằng điều này có liên quan nhiều đến việc hệ thống trường học tốt hơn hay kém hơn bất kỳ hệ thống nào khác. “Không có bài kiểm tra đầu vào, bạn chỉ cần có ý chí để học”. Điều này đúng với trường tiểu học và trung học cơ sở, nhưng với nhiều trường trung học phổ thông, bạn cần điểm tốt để vào học. Nếu một trường trung học phổ thông chuyên về thể thao hoặc nghệ thuật, bạn cũng cần làm bài kiểm tra đầu vào để vào học “Nếu bạn học ở trường trung học phổ thông hoặc tại trường đại học, tiểu bang sẽ giúp bạn 125 đô la một tháng.” Nếu bạn sống một mình, đúng là vậy. Tuy nhiên, nếu bạn sống với cha mẹ, nhà nước sẽ không cung cấp cho bạn. “Trẻ em Phần Lan được phép nói chuyện trong lớp và nói bất cứ điều gì xuất hiện trong tâm trí của chúng”. Trẻ em được phép nói chuyện trong lớp khi giáo viên cho phép. Tuy nhiên, trẻ không được phép nói bất cứ điều gì xuất hiện trong đầu. “Cấm phân loại học sinh vào các lớp khác nhautheo khả năng và năng lực trí tuệ”. Trong tất cả các lớp học có một giáo viên giáo dục đặc biệt để đảm bảo rằng tất cả trẻ em theo kịp các lớp. Tuy nhiên, cũng có những trường dành cho trẻ em có nhu cầu đặc biệt. “Không ai đi học trước khi bước sang 7 tuổi. Có, trừ khi sinh nhật của bạn là từ tháng 8 đến tháng 12. Trong trường hợp đó bạn đi học năm 6 tuổi. “Học sinh đánh giá giáo viên của mình và nếu họ xấu, họ sẽ bị sa thải”. Không đúng. Tuy nhiên, nếu giáo viên làm điều gì đó bất hợp pháp, ý kiến của học sinh được lắng nghe. “Trẻ em Phần Lan không bao giờ có quá nửa giờ làm bài tập về nhà”. Nó phụ thuộc vào mức độ nhanh chóng của đứa trẻ trong việc làm bài tập về nhà của mình. “Trong trường hợp giỏi thể thao, họ cung cấp cho bạn một huấn luyện viên cá nhân”. Không, ngay cả Phần Lan cũng không có tiền cho việc này. “Những học sinh chọn thực đơn trong tuần và có thể ăn tráng miệng hai lần”. Không. Làm thế nào tất cả các học sinh có thể chọn thực đơn? Có thể ai đó đã bỏ phiếu cho việc lựa chọn thực đơn trong số các lựa chọn khác nhau ở một số trường, nhưng ở hầu hết ở các trường, trẻ ăn những gì chúng nhận được. Món tráng miệng thì có thể. “Giáo dục được thực hiện trong một bầu không khí thoải mái, nơi mọi đứa trẻ được ngồi ở nơi mà chúng muốn”. Phụ thuộc vào trường học, nhưng điều này không áp dụng cho hầu hết các trường học (và với tư cách là giáo viên dạy thay, tôi đã từng đến khá nhiều trường học ở thủ đô). “Các kỳ thi có thể được thực hiện theo nhóm”. Trong những dịp hiếm hoi, có thể. Nhưng thường thì không. “Nếu một học sinh bắt nạt bạn hoặc bán ma túy, Học sinh đó sẽ bị đuổi và không có cơ hội quay trở lại”. Điều đó sẽ giải quyết cái gì? Có thể đứa trẻ không được phép vào cùng trường, nhưng luôn có những cuộc trò chuyện. Đầu tiên với đứa trẻ, sau đó với cha mẹ của nó. Sau đó, trong trường hợp xấu nhất nó có thể bị đuổi học nhưng chắc chắn nó sẽ bị đưa vào trường khác. “Mỗi lớp học có 3 giáo viên cho 2 học sinh”. Không. Tôi tự hỏi tiền lương của họ sẽ được trả là bao nhiêu? “Trường học bắt đầu sau 10 giờ sáng (mặc dù bộ não con người không hoàn toàn hoạt động để học sau giờ này)”. Không. Thời gian học bắt đầu khác nhau, nhưng thường là từ 8 giờ sáng đến 11 giờ sáng. “Cấm làm bài tập về nhà. Ý tưởng là để tận hưởng thời gian với gia đình và không bị căng thẳng”. Nếu nó bị cấm, tại sao giáo viên thậm chí sẽ cho làm bài tập về nhà? Không có nhiều bài tập về nhà, nhưng thường có một số. Tác giả Sissi – nhà báo người Phần Lan Nguyễn Việt Trung dịch
- Chơi bài trong giờ học - Chơi mà học, học mà chơi
1. HS, PHỤ HUYNH VÀ NHIỀU GV KHÁC SẼ TƯỞNG CHỈ LÀ CHƠI. (Vừa mừng vừa lo) - Khi nhắc đến chơi, HS luôn luôn hào hứng. Khi GV bảo là sẽ học thông qua chơi thì HS vẫn luôn hào hứng. Đôi khi hào hứng quá nên không quan tâm gì đến việc học nữa. Vì vậy, GV cần giải thích rõ mục đích chơi và luật chơi để HS tuân thủ, đảm bảo vừa vui vừa bổ ích. Đồng thời, điều đó sẽ giúp các bố mẹ hoặc với các thầy cô khác tránh hiểu lầm về CHƠI BÀI, tạo ra dư luận không tốt. 2. Trước khi CHƠI BÀI, GV cần cho hs ôn tập lại các kiến thức trước từ khi ở nhà hoặc một khoảng thời gian trước khi chơi bài. Điều này rất quan trọng, nó sẽ đảm bảo tất cả HS đều có khả năng chơi, muốn chơi và có hiệu quả học tập cao. Nếu GV không cho HS ôn tập trước thì nhiều bạn HS có học lực yếu thì sẽ rất rụt rè, thụ động và ít hào hứng khi chơi. Đơn giản vì các e ko có cái gì trong đầu để chơi, để « cãi nhau ». 3. Trong khi chơi, GV cần bao quát tất cả các nhóm chơi, điều tiết cảm xúc; phán xử, giải thích, tổ chức phản biện tích cực mỗi khi có các bất đồng ý kiến. Tránh việc sa đà vào cãi vã, nảy sinh mâu tuân thuẫn, sao nhãng mục đích chính là học tập. 4. Các đáp án – câu trả lời ghép vào nhau cần được kiểm soát, đảm bảo tính chính xác. Kinh nghiệm của mình với mỗi cặp quân bài thì cần được ghép cặp và xếp lần lượt. Cuối giờ GV cần tung ra hệ thống đáp án chuẩn để HS so sánh. Để việc kiểm tra được thuận tiện và nhanh chóng, GV có thể MÃ HÓA các cặp quân bài. (Ví dụ quân 1 sẽ được ghép với quân A. Số 1 và chữ A sẽ được đánh dấu trên quân bài). Cuối giờ, GV bắt buộc cần dành thời gian để tổng kết kết quả chơi bài và nhận xét quá trình « chơi – học » của học sinh. Qua một số lần tổ chức chơi bài thì mình nhận thấy kết quả khách quan là phần lớn các bạn học tốt thì sẽ chơi tốt. Và ngược lại! 5. Cần thay đổi các hình thức chơi bài hoặc 1 bộ bài có thể chơi theo nhiều cách, nhiều lần khác nhau. - Lần 1 : GV chuẩn bị bộ bài (bao gôm cả nội dung và hình thức) ; tổ chức thành các nhóm chơi, tính thành tích cà nhân. - Lần 2 : GV chuẩn bị bộ bài (bao gôm cả nội dung và hình thức) ; tổ chức thi đua giữa các tổ, tổ nào ghép các cặp bài xong trước, được nhiểu cặp bài nhất thì sẽ chiến thắng. (MỘT BỘ BÀI CÓ THỂ CHƠI THEO LẦN 1, LẦN 2 NHƯ TRÊN). - Lần 3 : HS tự chuẩn bị nội dung của bộ bài bằng việc thiết kế các câu hỏi trắc nghiệm hoặc các câu hỏi có câu trả lời ngắn (GV duyệt nội dung), HS tổ chức chơi. - Lần 4… HS thi đua thiết kế các trò chơi học tập sáng tạo, GV chấm điểm các sản phẩm đó. Nguồn: GV Luong Nguyen - Nhóm DHTC.















